Rùa Galápagos là loài bò sát thuộc Bộ cây bụi, loài rùa cạn, chúng được biết đến là một trong những loài bò sát lớn nhất còn sống. Hiện tại. Rùa Galápagos chỉ tồn tại ở hai quần đảo Galápagos cách Ecuador 1000 km về phía tây và đảo Aldabra (Ấn Độ Dương) cách Tanzania 700 km về phía đông.
Rùa Galápagos có vỏ lớn màu nâu hoặc xám, kết hợp với các xương sườn không chỉ tạo nên lớp vỏ vững chắc để bảo vệ cơ thể mà còn kết nối chặt chẽ với bộ xương. Đây cũng là “mái nhà” của loài Rùa Galápagos sống trong suốt cuộc đời của nó. Ngoài ra, chúng còn có khả năng rụt đầu, các chi vào mai như các loài rùa khác, các chi tương đối to, da khô, vảy cứng.
Mục lục
Giới thiệu
Rùa Galápagos hoặc Rùa khổng lồ Galápagos (danh pháp hai phần: Chelonoidis nigra) là một loài rùa thuộc Họ Rùa cạn. Là loài rùa cạn còn sống lớn nhất và là một trong 10 loài bò sát còn sống nặng nhất. Đạt trọng lượng khoảng 400 kg (880 lb) và chiều dài mai khoảng 1,8 m (5,9 ft). Với tuổi thọ trong tự nhiên là hơn 100 năm. Nó là một trong các loài động vật có xương sống sống lâu nhất. Một cá nhân bị giam cầm sống ít nhất 170 năm.
Rùa có nguồn gốc bảy đảo của quần đảo Galápagos. Một quần đảo núi lửa khoảng 1.000 km (620 dặm) về phía tây của đại lục Ecuador. Nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã phát hiện ra hòn đảo vào thế kỷ 16 đặt tên cho họ sau khi galápago Tây Ban Nha. Có nghĩa là con rùa. Kích thước và hình dạng vỏ khác nhau giữa các quần thể. Trên hòn đảo với vùng cao nguyên ẩm ướt; con rùa lớn hơn, vỏ mái vòm và các cổ ngắn.
Trên hòn đảo với vùng đất thấp khô, con rùa nhỏ hơn, với “Saddleback” vỏ và cổ dài. Những khác biệt hòn đảo đảo này đóng một vai trò quan trọng trong sự khởi đầu của thuyết tiến hóa của Charles Darwin. Ngày 9 tháng 1 năm 2012, người ta đã công bố phát hiện lại loài rùa sau 150 năm được cho là đã tuyệt chủng. Loài rùa này có quan hệ họ hàng gần gũi với rùa Chelonoidis becki cùng sống ở quần đảo trên. Cách đảo Floreana khoảng 200 dặm (322 km). Rùa Chelonoidis elephantopus lần cuối được nhìn thấy ở đảo Floreana vào khoảng 150 năm trước đây.
Hành vi
Rùa Galápagos là loài động vật máu lạnh, vì vậy chúng thường dành 1-2 giờ sau khi bình minh để hấp thụ ánh sáng mặt trời. Giữ ấp cho cơ thể bên trong lớp vỏ. Trong môi trường nuôi nhốt, Rùa Galápagos thường chỉ đi lại và nằm nghỉ. Tuy nhiên trong điều kiện tự nhiên, chúng sẽ di cư liên tục từ nơi có khí hậu lạnh tới nơi có thời tiết ấm áp.
Vào mùa khô Rùa Galápagos thường ở khu vực đồi núi cao (có thể lên tới 600 mét). Mùa mưa chúng lại quay về khu vực đồng cỏ. Các cá thể Rùa rất thích nằm trong bùn hoặc tắm ở “hồ điều hòa”. Chúng muốn thoát nhiệt và quan trọng hơn là bảo vệ cơ thể khỏi những kí sinh trùng, muỗi, ve và các loài hút máu khác.
Chế độ ăn và mối quan hệ cộng sinh
Rùa Galápagos là động vật ăn cỏ, thức ăn ưa thích của chúng là quả xương rồng, cỏ dại, lá, dưa, cam… Ngoài ra một số thức ăn khá dị của loài rùa đặc biệt này có thể kể đến. Như Táo độc (Hippomane mancinella); ổi (Psidium galapageium), dương xỉ nước và cây Họ Dứa.
Một cá thể Rùa có thể nạp số lượng thức ăn bằng 16% trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Chúng cũng hấp thụ nước từ sương, sáp trong thực vật. Vì vậy có thể sống hơn 6 tháng mà không có nước. Ngoài ra chúng hoàn toàn có thể tồn tại 1 năm liền mà không hề ăn uống gì. Điều này có thể xảy ra là do cơ thể sử dụng lớp mỡ để sản xuất ra nước, chuyển hóa thành năng lượng.
Rùa Galápagos có mối quan hệ mật thiết với chim Sẻ Darwin và chim Nhại. Chúng thường báo hiệu cho các loài chim này biết bằng cách nâng cao cổ, mở rộng chân ra, đồng thời mở miệng. Những loài chim này sẽ tiến tới và mổ vào vùng cổ, mai, chân Rùa Galápagos. Để làm sạch các loài sống kí sinh trên cơ thể. Một thông tin bất ngờ là, khi nâng mai lên, một số cá thể chim sẽ luồn xuống dưới mai, ngay lập tức. Rùa sẽ hạ mình xuống và giết chim. Lúc này Rùa Galápagos sẽ ăn thịt chim để bổ sung lượng Protein cho cơ thể.
Sinh sản
Cá thể Rùa được coi là trưởng thành về mặt sinh sản khi đạt 20-25 tuổi trong điều kiện nuôi nhốt và 40 tuổi trong tự nhiên. Việc giao phối của Rùa Galápagos xảy ra ở bất kì thời điểm nào trong năm. Những cá thể rùa đực sẽ tập trung lại và “biểu diễn” bằng cách nâng cao cổ hết mức có thể. Thi thoảng chúng sẽ chiến đấu với nhau.
>>> Đọc thêm tại đây
Tuy vậy, sau tất cả, cá thể rùa cổ ngắn hơn sẽ thua cuộc và nhường quyền giao phối cho con đực còn lại. Quá trình giao phối, con đực sẽ “rên rỉ”. Sau đó, con cái sẽ di chuyển tới khu vực cát khô. Dùng chân sau đào một lỗ hình trụ dài khoảng 30 cm và đẻ vào đó khoảng 16 quả trứng. Con non mới sinh chỉ nặng khoảng 50gram và chui ra từ trứng sau 4-8 tháng ấp.
Một số thông tin thú vị về Rùa Galápagos
– Cá thể rùa lớn nhất từng được ghi nhận nặng 417 kg và chiều dài của mai là 1,8m (tương đương với chiều cao của một người trưởng thành)
– Rùa Galápagos còn là một trong những loài động vật có xương sống “thọ” nhất thế giới. Cá thể từng được nuôi dưỡng tại Vườn thú Australia trên 170 tuổi đã mất năm 2006.
– Tốc độ của Rùa Galápagos được ghi nhận là 0,3 km/h